THƠ HAI-KƯ(1)
I. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA
THƠ HAI-KƯ
Nói đến Nhật Bản, người ta thường nghĩ đến một trong những cường quốc Châu
Á và thế giới hiện đại. Không chỉ thế, Nhật Bản còn có một nền văn học rất phát
triển và đạt được nhiều thành tựu. Nếu dân tộc Việt Nam tự hào
với thể thơ lục bát, người Trung Quốc tự hào vì có thơ Đường,... thì người Nhật
Bản lại tự hào vì có thơ hai-kư, một trong những thể thơ độc đáo trên Thế giới.
Thơ
hai-kư bắt đầu hình thành từ thế kỉ XVI và đạt đỉnh cao ở thế kỉ XVII. Là thể
thơ ngắn nhất thế giới, thơ hai-kư thường có 17 âm tiết (có thể ngắn hoặc dài hơn
một chút), được ngắt làm 3 dòng (5-7-5). Ba dòng trong bài thơ hai-kư có các
chức năng khác nhau:
-
Dòng thứ nhất: giới thiệu
-
Dòng thứ hai: tiếp tục ý trên và chuẩn bị cho dòng thứ ba
-
Dòng thứ ba: kết lại tứ thơ, nhưng không bao giờ rõ ràng, đủ ý mà phải mở ra
những suy tư, những dư vị cảm xúc trong lòng người đọc theo kiểu cam dư chi vị, huyền ngoại chi âm (vị
ngọt sau khi ăn, tiếng ngân ngoài dây đàn).
Lấy đề tài là khoảnh khắc của cảnh vật cùng
những khoảnh khắc đỉnh điểm của cảm xúc, thơ hai-kư thường miêu tả thiên nhiên
theo mùa (quý đề), sử dụng những từ miêu tả thiên nhiên của mùa (quý ngữ). Vì
vậy, khi thơ hai-kư lướt qua tâm hồn, người đọc như được chạm vào thiên nhiên,
đắm mình trong hơi thở của mùa. Thiên nhiên trong thơ hai-kư thường là những
cảnh vật bình dị, những vật nhỏ bé, dễ bị lãng quên: một tiếng chim quyên, một
tiếng ve ngâm, một làn tóc rối, một cánh quạ chiều, một con ếch nhỏ, một chú
khỉ con, một bông hoa dại… Thơ hai-kư thấm đẫm tinh thần Thiền tông và văn hóa
phương Đông (con người và vạn vật nằm trong mối quan hệ khăng khít với
một cái nhìn nhất thể hóa, những hiện tượng của tự nhiên có sự tương giao và
chuyển hoá lẫn nhau).
Về cảm thức thẩm mĩ, thơ hai-kư đề
cao cái Vắng lặng, Đơn sơ, U huyền, Mềm mại, Nhẹ nhàng. Ngôn ngữ thơ hai-kư hàm súc, thiên về gợi, không có chỗ cho những từ hoa mỹ phù phiếm. Cái đẹp của thể
thơ nhẹ nhàng đơn sơ này là cách nó nắm bắt tố chất của sự vật trong một vài từ.
Sức mạnh của thể thơ nhỏ nhắn, mong manh này ở cách nó khơi gợi, đánh thức liên
tưởng nơi tâm hồn ta. Để tạo nên điều đó, thơ hai-kư sử dụng thi pháp
“chân không”: tạo những mảng trắng, khoảng trống trong bài thơ như một phương
tiện làm nổi bật ý nghĩa của bài thơ; dưới sự liên tưởng đa chiều của người
đọc, các lớp ý nghĩa có thể hiện lên rất phong phú.
II. GIỚI THIỆU MỘT SỐ BÀI THƠ
HAI-KƯ CỦA
NHẬT BẢN
Là quê hương của thơ hai-kư, Nhật Bản có nhiều thi sĩ làm thơ
hai-kư tài năng như Y.Bu-son (1716-1783), K.Ít-sa (1763-1827), M.Si-ki
(1867-1902)… Song, trong số rất nhiều thi sĩ làm thơ hai-cư, Ma-su-ô
Ba-sô (1644-1694) được đánh giá là bậc thầy.
M. Ba-sô là một thi sĩ hành hương danh tiếng của Nhật Bản. Ông sinh ra
trong một gia đình võ sĩ cấp thấp ở quê hương U-ê-nô, xứ I-ga (nay là
tỉnh Mi-ê). Năm 28 tuổi,
ông chuyển đến kinh đô Ê-đô sinh sống và làm thơ Hai-cư, bút hiệu là Ba-sô (Ba
Tiêu), nghĩa là Cây chuối (vì ông rất yêu loại cây này) . Là con người tài
hoa, ưa lãng du, trong 10 năm cuối đời, ông du hành hầu khắp đất nước. Dấu ấn
đó đọng lại trong các tác phẩm của ông: Phơi thân đồng nội (1685), Đoản
văn trong đãy (1688), Cánh đồng hoang (1689), Áo tơi cho khỉ
(1691), Lối lên miền Ô-ku (1689)...
Sau
đây là một số bài thơ của M. Ba-sô:
Bài 1
Đất khách mười
mùa sương
về thăm quê
ngoảnh lại
Ê-đô là cố
hương.
Bài thơ ghi lại sự thực về
cuộc đời nhiều biến đổi, lãng du của Ba-sô. Ông quê ở Mi-ê, lên Ê-đô (Tô-ki-ô)
ở được 10 năm rồi trở về thăm lại quê (lúc này, nhà thơ khoảng 38 tuổi). Đây
cũng là hoàn cảnh của nhiều tác giả, trở thành đề tài trong thơ (bài Hồi hương ngẫu thư của Hạ Tri Chương,
bài Trở lại An Nhơn của Chế Lan
Viên...)(2) song,
bài thơ không đi theo lối mòn để ghi lại những cảm xúc bồi hồi, buồn vui lẫn
lộn khi về quê cũ mà lại là một khoảnh khắc tâm trạng thật bất ngờ. Khoảnh khắc
ấy được biểu hiện ở câu thứ ba, câu dồn tụ ý tưởng toàn bài thơ:
Ê-đô là cố hương
Cố hương, tức là quê cũ, là nơi từng gắn bó máu
thịt với con người. Khi nhà thơ viết Ê-đô là cố hương tức là Ê-đô, mảnh
đất nơi mình gắn bó suốt mười năm xa quê hương, nay đã trở thành nơi gắn bó máu
thịt trong lòng, là quê hương thứ hai vô cùng thân thiết. Vì thế, bài thơ gợi
tình cảm tha thiết, chân thành với miền đất từng gắn bó.
Khi xưa, Giả Đảo cũng từng viết ý này:
ĐỘ TANG
CÀN
Khách
xá Tinh Châu dĩ thập sương
Quy
tâm nhật dạ ức Hàm Dương
Vô
tang cánh độ Tang Càn thủy
Khước
vọng Tinh Châu thị cố hương.
(Làm quan ở đất khách Tinh Châu đã mười năm
Ngày đêm nhớ quê Hàm Dương muốn trở về
Không dưng lại vượt qua sông Tang Càn
Ngoảnh lại Tinh Châu, thấy đó như quê hương
mình.)
Những tưởng bài thơ tứ tuyệt của Giả Đảo đã rất
cô đọng rồi. Nhưng khi đọc đến bài thơ hai-kư cuả M.Ba-sô mới thấy bài thơ của
Giả Đảo còn nhiều từ thừa thãi: những lời dẫn giải, những địa danh..., mà trong
thơ thì kị nhất là ý thiểu từ phí (ý
ít lời nhiều). Bài thơ hai-kư của M.Ba-sô mới thật là súc tích, nó chỉ chắt lọc
lấy cái hay nhất của bài Độ Tang Càn:
tứ thơ.
Sau này, trong bài thơ Tiếng hát con tàu, nhà thơ Chế Lan Viên cũng viết: “Khi ta ở chỉ
là nơi đất ở/ Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn”. Vì thế, có thể nói: bài thơ
của M.Ba-sô đã gợi được sự đồng điệu, là tiếng nói chung của bao người xa quê
khi gắn bó với quê hương thứ hai, nơi
đã cưu mang mình khi xa nơi cắt rốn chôn
rau.
Bài 2
Chim đỗ quyên
hót
ở Kinh đô
mà nhớ Kinh đô.
Bài thơ là nỗi niềm hoài
cảm về kinh đô Ki-ô-tô đẹp đẽ đầy kỉ niệm. M.Ba-sô ở kinh đô Ki-ô-tô từ thời
trẻ (1666-1672), tức là từ khi 22 tuổi đến 28 tuổi, sau đó, ông lên Ê-đô. Hai
mươi năm sau, về cuối đời, ông trở lại, nghe tiếng chim đỗ quyên hót mà viết nên
bài thơ này.
Quý ngữ chim
đỗ quyên (chim tu hú) là dấu hiệu của mùa hè. Trong văn học Trung Quốc,
chim đỗ quyên gắn liền với điển tích Thục đế bị mất nước. Ở Nhật Bản, chim đỗ
quyên được gọi là hô-tô-tô-ghi-su, là loài chim rất nổi tiếng trong thơ hai-kư.
Loài chim này thường kêu vào đầu hè. Nó không hót khi trời đẹp mà thường hót
vào xẩm tối, vào đêm trăng hay khi trời mưa...với tiếng kêu rất thê thiết. Vì
thế, tiếng chim đỗ quyên còn được dùng với nghĩa thương tiếc thời gian, và đặc
biệt thể hiện nỗi buồn và sự vô thường. Trở về Kinh đô sau hai mươi năm xa
cách, M.Ba-sô nghe tiếng chim đỗ quyên hót ở
Kinh đô nay (hiện tại) mà nhớ về Kinh đô xưa (quá khứ):
Chim đỗ quyên hót
ở Kinh đô
mà nhớ Kinh đô.
Chủ thể của bài thơ bị xóa mờ. Ở giữa Kinh đô ngày nay mà nhớ về Kinh đô
ngày xưa, một Kinh đô đầy kỉ niệm, một Kinh đô đã vĩnh viễn qua rồi! Với nghĩa
đó, bài thơ là nỗi niềm hoài cổ, gợi nhiều tâm trạng: bâng khuâng, nhớ tiếc, có
gì đó như chua xót nữa! Cái thời đã qua của Kinh đô cũng là cái thời đã qua của
một kiếp con người, những cái đã qua ấy không lấy lại được. Đó là cái nhìn đầy
biện chứng. Vì thế, âm thanh trong bài thơ gợi nhiều dư âm. Tiếng chim đỗ quyên
hót hay tiếng lòng người đang thổn thức bâng khuâng trong nỗi nhớ tiếc thời
gian? Hay cả tiếng chim và tiếng người? Điều ấy thật mơ hồ, mang đặc trưng của
thơ hai-kư, tạo dư vị đầy ám
ảnh cho bài thơ.
Bài 3
Lệ trào nóng hổi
Tan trên tay tóc mẹ
Làn sương thu.
Bài thơ này được viết trong một hoàn cảnh tâm lí đặc biệt. Năm M.Ba-sô 40
tuổi, ông du hành đến vùng Ka-sai, nơi gần nhà, nên đã ghé về thăm quê, mới
biết mẹ đã mất. Người anh đưa cho ông mớ tóc bạc của mẹ...
Trong bài thơ, hiện thực đó được Ba-sô nhắc tới. Hình ảnh mái tóc của mẹ vô cùng gợi cảm. Nó chính là di vật của người mẹ đã mất, là biểu tượng cho cuộc
đời vất vả một nắng hai sương của người mẹ, gợi những hao mòn của cuộc đời mẹ
theo năm tháng ngóng tin con...
Vẻ đẹp của bài thơ còn ở chỗ cách diễn đạt của
tác giả đã gợi lên trường liên tưởng trong lòng người đọc. Quý ngữ: làn sương thu tạo nên
một hình ảnh đa nghĩa: Giọt lệ như sương thu? Tóc
mẹ như làn sương thu? Đời người như làn sương - ngắn ngủi, vô thường? ... Cụm
từ tan trên tay cũng có thể gắn với
các đối tượng (chủ thể) khác nhau: dòng lệ nóng hổi tan trên tay (khi con ôm
mặt khóc mẹ)? Hay tóc mẹ như tan trên tay con vì nó được nhìn qua đôi mắt nhòe
ướt bởi lệ trào? Hình ảnh dòng lệ trào
nóng hổi gợi lên nỗi xót xa, đau đớn
vì mất mẹ. Nó là dòng lệ tức tưởi, bàng
hoàng thể hiện tình con với mẹ thương yêu. Tình mẫu tử ở đây được thể hiện cô
đọng mà xúc động đến nhường nào!
Bài 4
Từ bốn phương trời xa
Hoa anh đào lả tả
Gợn sóng hồ Bi-wa.
Dựa vào quý ngữ hoa anh đào, người đọc phát hiện bài thơ miêu tả mùa xuân. Cảnh mùa
xuân được vẽ lên từ muôn ngàn cánh hoa đào như từ bốn phương trời xa về hội tụ quanh
hồ Bi-wa, dệt tấm lụa hồng trang điểm cho cảnh hồ, rồi rụng lả tả làm mặt hồ gợn
sóng. Bài thơ không nói đến gió nhưng người đọc vẫn liên tưởng tới những làn
gió nhè nhẹ của mùa xuân đang giỡn trên những cánh hoa anh đào đủ làm hoa rơi
lả tả, bay theo gió, đậu xuống mặt hồ, làm sóng hồ lăn tăn. Hơn nữa, hồ Bi-wa
là hồ lớn nhất của Nhật Bản, giống hình cây đàn tì bà, rất đẹp. Những cánh hoa
anh đào nhẹ nhàng đậu xuống mặt nước hồ giống như thiên nhiên đang khẽ dạo lên
khúc nhạc trên cây đàn tì bà khiến những sóng nhạc ngân nga loang theo sóng hồ.
Cảnh thiên nhiên giản dị, đơn sơ mà sáng đẹp, lãng
mạn. Những chuyển động thật nhẹ nhàng đã thể hiện sự tương giao của các sự vật,
hiện tượng trong vũ trụ, thấm đẫm tinh thần triết lí Thiền tông.
Thật khó có thể có được cách gợi tả hay đến thế!
III. MỜI BẠN CÙNG THỬ SÁNG
TÁC THƠ HAI-KƯ
Cho đến nay, thơ hai-kư vẫn
tiếp tục được người Nhật Bản yêu thích và sáng tác. Thể thơ này còn được nhiều
nhà thơ phương Tây tiếp thu và sáng tác thơ hai-kư bằng tiếng nước mình, trong đó có một số nhà thơ
tiêu biểu như: R.M.Ri-cơ (Đức), P.Ê-luy-a (Pháp), Ốc-ta-vi-ô Pát Tây Ban
Nha)... Ở Việt Nam, một số người cũng sáng tác thơ theo thể này. Người được
mệnh danh là Ông hoàng thơ hai-kư
Việt là nhà văn Nhật Chiêu (www.nguoiduatin.vn/ong-hoang-tho-haiku-tai-viet-nam-a49209.html).
Nhân bàn về thơ hai-kư, xin chia
sẻ mấy vần Ngân ngẫu hứng trên đường đi làm về, tập tành theo lối thơ này:
1. Sen cuối mùa
Tàn tạ
Cô phụ bên hồ.
2. Sương giăng mịt mù
Hay mắt ai nhòa lệ
Tình chia xa.
3. Xào xạc bờ tre
Thuyền lá lượn
Sóng hồ chênh chao.
Mời bạn cùng trao đổi thêm về thể thơ này. Nếu bạn có hứng thú, xin mời
cùng thử bút!
.........................
Chú thích:
(1). Thơ hai-kư, còn có tài liệu phiên âm là thơ hai-ku. Cách phiên âm là
hai-kư có lẽ do tránh sự hiểu lầm nghĩa theo âm tiếng Việt? Người viết chọn
cách phiên âm này.
(2) Bài Hồi hương ngẫu thư:
Phiên âm:
Thiếu tiểu li gia lão đại hồi
Hương âm vô cải, mấn mao tồi
Nhi đồng tương kiến bất tương
thức
Tiếu vấn: Khách tòng há xứ lai?
(Hạ Tri Chương)
Dịch thơ: Ngẫu hứng viết khi về thăm
quê
Khi đi trẻ, lúc về già
Giọng quê vẫn thế, tóc đà khác bao
Trẻ con nhìn lạ không chào
Hỏi rằng: Khách ở nơi nào đến chơi?
Bài Trở lại An Nhơn
Trở lại An Nhơn tuổi lớn rồi
Bạn chơi ngày nhỏ chẳng còn ai
Nền nhà nay dựng cơ quan mới
Chẳng lẽ thăm quê lại hỏi người?
(Chế Lan Viên)